Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

Sac den quyen ru va goi cam cung Mec sang trong

- Chọn cho mình những bộ trang phục màu đen, người đẹp vẫn thu hút mọi ánh nhìn khi làm sáng bên chiếc xe Mercedes-Benz đắt tiền. "Ban công Juliet" ở Hà Nội TP - Từ Thành Hồ, tòa thành đá kỳ vĩ vừa được UNESCO xếp hạng là Di sản văn hóa nhân loại xuôi theo đường 217 xuống mạn Nam hơn 10 km sẽ bắt gặp một công trình độc đáo nữa của Hồ Quý Ly. Đó là Ly Cung. Ly Cung bây giờ tàn tạ hoang phế nhưng có thời điểm Hồ Quý Ly định chọn là kinh đô của triều Hồ? Một góc Ly cung nhà Hồ. Ảnh: xuân ba.
Sắc đen quyến rũ và gợi cảm cùng
Sắc đen quyến rũ và gợi cảm cùng
Sắc đen quyến rũ và gợi cảm cùng
Sắc đen quyến rũ và gợi cảm cùng

Sắc đen quyến rũ và gợi cảm cùng

Sắc đen quyến rũ và gợi cảm cùng

Sắc đen quyến rũ và gợi cảm cùng

Sắc đen quyến rũ và gợi cảm cùng
Sắc đen quyến rũ và gợi cảm cùng

quyến rũ , chiếc xe , xe , trang phục , gợi cảm , màu đen , đắt tiền , sang trọng , người đẹp , thu hút , mercedes-benz ,

(HNM) - Ban công không chỉ làm duyên cho ngôi nhà mà còn là cầu nối không gian trong nhà với thiên nhiên, đất trời. Đứng ở đây có thể ngắm phố, ngắm cây và chứng kiến cuộc sống trôi qua trước mắt. Ban công từng là một nét văn hóa rất riêng và độc đáo trong kiến trúc của phố Hà Nội...



Sau khi đánh thắng quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802, lấy niên hiệu là Gia Long và chuyển kinh đô vào Huế. Năm 1805, lấy cớ chữ Long (rồng) chỉ tượng trưng cho Kinh sư nên Gia Long đã cho đổi chữ Long (rồng) trong Thăng Long sang chữ Long (thịnh). Thế là sau hơn 800 năm là kinh đô, Thăng Long trở thành trấn thành. Năm 1815 Gia Long công bố "Hoàng Việt luật lệ" (hay còn gọi là Luật Gia Long), đây là bộ luật thứ hai của triều đại phong kiến Việt Nam sau Luật Hồng Đức đời Hậu Lê. Luật có 22 quyển với 398 điều, bao quát các mặt của đời sống chính trị, xã hội trong đó có nhiều điều khoản hạn chế về xây nhà ở Hà Nội.


Ban công tại biệt thự cổ 29 Cao Bá Quát - Hà Nội.

Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi đã cho sửa "Hoàng Việt luật lệ" để phù hợp với cách cai quản của mình. Về xây dựng nhà cửa ở Hà Nội, "Hoàng Việt luật lệ" sửa đổi đã quy định: "Nhà trong trường hợp nào cũng không được xây trên nền hai cấp hay chồng hai mái. Cấm làm nhà có gác cao bằng vai kiệu trương quan đi tuần" và "Cấm không được trổ cửa sổ ra bên đường". Cùng với những cấm đoán trong xây dựng, chính sách thuế của nhà Nguyễn từ Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức cũng tác động tiêu cực đến bộ mặt đô thị Hà Nội. Nhà nước phong kiến này không căn cứ vào buôn to hay bán lớn để định ra mức thuế mà thu theo mặt tiền của cửa hàng. Mặt tiền càng rộng thuế càng cao, bất kể chiều sâu của ngôi nhà và hàng hóa chất bên trong nhiều hay ít. Kiểu thu thuế này khiến nhiều gia đình có mặt tiền rộng phải è lưng ra đóng thuế nên họ xẻ nhỏ chia cho con cái, có nhà thì bán hay cho thuê và kiến trúc nhà ống ra đời. Khi thực dân Pháp chiếm hoàn toàn Hà Nội vào năm 1883, sang năm 1884, họ mới lục tục kéo về và dù luật lệ của nhà Nguyễn về nhà cửa vẫn còn nhưng thực tế nó không có giá trị vì thực dân Pháp đã cai quản Hà Nội. Tuy nhiên kinh tế khó khăn nên thành phố vẫn còn rất nhiều nhà lá. Viên Công sứ đầu tiên tại Hà Nội là Bonnal bắt đầu lên một kế hoạch xây dựng bằng việc cho xây Tòa Đốc lý, bưu điện... ở phía đông Hồ Gươm theo tinh thần kiến trúc cổ điển Pháp thế kỷ XIX. Bonnal cũng ra quyết định làm con đường quanh Hồ Gươm, mở rộng phố Hàng Khảm (bao gồm phố Tràng Tiền và Hàng Khay ngày nay), con đường huyết mạch từ khu nhượng địa đến thành Hà Nội. Năm 1885, việc mở rộng phố Hàng Khảm hoàn thành và người ta cho lát vỉa hè, trồng phượng hai bên, nhà xây gạch thay cho nhà lá xuất hiện ngày càng nhiều. Hiện tại tầng 3 nhà số 3 phố Hàng Khay vẫn còn hàng số 1886, tức là năm xây dựng ngôi nhà. Và cũng tại nhà số 3 này vẫn còn một ban công trên tầng 2, có lẽ đây là ban công đầu tiên của nhà dân ở Hà Nội.

Để có công cụ quản lý thành phố, chính quyền đã ra nhiều nghị định để quản lý đô thị, thuế má, trong đó có "Quy chế về lục lộ thành phố Hà Nội" ban hành ngày 12-9-1891 do Đốc lý Beauchamp ký. Quy chế này quy định: "Ban công chỉ được làm ở độ cao 4m tính từ mặt vỉa hè lên ở những phố có chiều rộng không dưới 10m với phần nhô ra là 0,80m. Với ban công tầng nhỏ cửa sổ trên tầng trệt là 0,22m". Quy chế này là sự thay đổi lớn trong xây dựng nhà ở cho người dân Hà Nội vì không chỉ được phép xây cao hơn cả "kiệu của trương tuần" mà nhà Nguyễn trước đó cấm dân mà còn cho phép họ xây nhô ra. Họa sỹ Trần Hậu Yên Thế cho rằng: "Ban công đã cho người Việt một giá trị mới: giá trị cá nhân, giá trị của con người thị dân. Chưa bao giờ người Việt được đứng ở tầm cao như vậy để nhìn xuống người đi đường và cũng chưa bao giờ những kẻ thị dân được nhìn ở tầm cao như vậy". Ban công là phiên âm từ balcon trong tiếng Pháp có nghĩa là phần làm nhô ra của ngôi nhà. Ban công có trong kiến trúc cổ điển Châu Âu nhưng trở nên phổ biến sau khi bi kịch "Romeo và Juliet" của W.Shakespeare viết năm 1597 được công diễn, trong đó có cảnh nàng Juliet trên ban công và Romeo đứng ở dưới tâm tình. Cái tên "ban công Juliet" ra đời từ đó.

Năm 1923, một loạt công trình lớn được xây dựng tại Hà Nội với kiến trúc theo phong cách Pháp kết hợp với kiến trúc dân gian Việt Nam. Người tiên phong là kiến trúc sư Ernest Hébrard khi ông thiết kế tòa nhà chính của Đại học Dược (phố Lê Thánh Tôn hiện nay), kiến trúc này mở đầu cho phong cách kiến trúc Đông Dương. Không chỉ ở các công trình lớn, kiến trúc Đông Dương còn thấy ở nhiều biệt thự xây dựng trong những năm 1930 ở khu vực "khu phố Pháp" (Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Quang Trung...) và tất nhiên không thể thiếu được "ban công Juliet" xinh xắn. "Ban công Juliet" cũng xuất hiện ở hầu hết các nhà dân xây dựng từ năm 1930 đến 1954.

Ban công nhô ra phía mặt đường, chỉ chiếm một phần chiều rộng của mặt tiền có lan can uốn bằng sắt dẹt với các hoa văn đa dạng, từ hoa lá, họa tiết thừng đến chữ Thọ và cả chữ quốc ngữ viết tắt tên chủ nhà có tính thẩm mỹ, chứa đựng ý nghĩa. Tất nhiên các kiến trúc sư thiết kế các họa tiết lan can trên ban công nhưng không thể không nói đến những người thợ sắt vô cùng lành nghề và khéo tay. Một trong những cửa hàng có thợ giỏi phải kể đến là Hãng Cơ khí Phúc Long (ở 173 phố Phan Đình Phùng), trước khi chế tạo ra những chiếc xích lô gọn nhẹ vào năm 1952, Phúc Long đã nổi tiếng Hà Nội về làm cửa sắt, lan can ban công từ những năm 1930. Cửa sắt, lan can của Phúc Long không có mối hàn mà ghép với nhau bằng đinh tán và bây giờ vẫn còn thấy chẳng hạn như cánh cổng Hội Hợp Thiện (phố Lê Trực, nay là Ủy ban nhân dân phường Điện Biên). Kiến trúc sư Ngô Đức Diên khi thiết kế ngôi nhà 46 phố Hàng Ngang cho nhà tư sản Trịnh Văn Bô đã chọn Phúc Long làm lan can sắt.

Ngày 10-10-1954, hàng vạn cán bộ, công nhân, bộ đội từ chiến khu về tiếp quản Thủ đô không có chỗ ở đã phải thuê hay ở nhờ nhà dân trong phố. Một vài khu tập thể tức tốc được xây dựng ở bờ sông Hồng nhưng cũng không đáp ứng được nhu cầu và Nhà nước đã phải phân nhiều biệt thự, nhà mặt phố mà chủ đã di cư vào Nam cho cán bộ. Từ một hộ nay có nhiều hộ hơn nên diện tích chia cho các hộ cũng hẹp và để thêm diện tích sinh hoạt, chỗ thơ mộng nhất của ngôi nhà biến thành chỗ phơi quần áo, có nhà che phía ngoài làm bếp. Tình trạng đó kéo dài cho đến ngày nay.

Sau năm 1975 và kéo dài đến đầu những năm 1990, một số nhà xây mới vẫn theo phong cách kiến trúc cũ, tuy nhiên họ làm ban công hết cả chiều rộng mặt tiền. Có nhà dùng ban công làm nơi hóng mát mùa hè nhưng nhiều nhà đặt chậu hoa hay trồng hoa giấy. Song có điều lan can sắt không còn họa tiết đẹp như trước nữa, thợ sắt chỉ nối các đoạn sắt tròn bằng mối hàn xù xì và hình thù rất tùy tiện. Có chủ không có sắt đã thay thế bằng hình con tiện gốm hay các viên gạch trang trí khiến ban công trở nên nặng nề và thô vụng. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng phải kể đến tình trạng khan hiếm sắt, quản lý xây dựng đô thị lỏng lẻo và thiếu quy định chặt chẽ trong xây dựng nhà ở.

Đầu tháng 3-2012, tại Viện Goethe diễn ra triển lãm "Nhà mặt phố" của họa sĩ Nguyễn Thế Sơn. Để có được hình ảnh chân thực làm nền cho những bức tranh sử dụng không gian 3 chiều, họa sĩ đã phải chụp hàng nghìn ngôi nhà từ cũ đến mới và một kết quả từ những bức ảnh cho thấy, "ban công Juliet" còn rất ít. Với những ngôi nhà mới xây, gia chủ rất thực dụng bởi đất thành phố quý hơn vàng nên họ không làm ban công. Bắt đầu từ tầng hai trở lên, họ xây tường để tăng diện tích sử dụng cho các căn phòng. Lại có nhà làm khung nhôm bịt kính, rồi quảng cáo kín cả mặt tiền. Cảm giác của người xem triển lãm là sự phát triển dường như ngoài tầm kiểm soát. "Ban công Juliet" đang ít dần làm mất đi sự lãng mạn trong văn hóa kiến trúc của Hà Nội...

Tên gọi Ly Cung

Năm đã xa ấy cùng đoàn cán bộ Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa về tham quan phế tích Ly Cung. Băn khoăn tên gọi Ly Cung thì được một vị giải thích rằng Hồ Quý Ly thấy triều Trần đã đến hồi mục ruỗng có ý đồ đảo chính để thay thế.

Động thái dời đô từ Thăng Long vào Tây Đô nói lên tư tưởng ly khai. Sở dĩ có tên Ly Cung là thế! Nhưng một vị khác nhỏ nhẹ rằng không phải vậy. Ly là quẻ Ly, đâu như quẻ thứ 30 trong Kinh Dịch, một trong tám quẻ của bát quái.

Ly nghĩa là sáng chói, tỏa ra, phô trương ra ngoài. Ly là mặt trời. Hồ Quý Ly đặt tên cho cung Bảo Thanh thuở ấy là Ly Cung bao hàm nghĩa ấy!

Có vẻ như cách giải thích ấy thuận tai hơn? Sau này hỏi lại nhà sử học Trần Quốc Vượng, ông cũng nói na ná thế.

Đặc biệt ông còn nói thêm, Hồ Quý Ly có tư chất của một bậc vĩ nhân, một đại nhân! Rằng quẻ Ly là mặt trời, khí hỏa. Dịch - Ly quái - tượng cũng viết: "Đại nhân tiếp tục chiếu sáng bốn phương".

Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Quý Ly đặt tên cho cung Bảo Thanh ở đất Kim Âu xứ Thanh quê mình là Ly Cung. Nhưng những vĩ nhân đại nhân có tính khí này dễ tự cao huênh hoang, kiêu ngạo, hiếu chiến!

Từng định là kinh đô mới triều Hồ

Xin trở lại với những dè bỉu của người đời về địa thế Thành Hồ Tây Đô thủ đô mới của Hồ Quý Ly.

Tây Đô có hình sông thế núi khá hiểm yếu được án ngữ bốn mặt bằng bốn quả núi lớn: phía bắc có núi Thổ Tượng, phía đông có núi Hắc Khuyển, phía tây có núi Ngưu Ngọa, và phía nam có núi Đốn Sơn.

Ngoài những bức bình phong tự nhiên như vậy, Tây Đô còn được che chắn bởi những dòng sông. Sông Bưởi từ phía đông chảy tới hội tụ với sông Mã từ phía tây chảy qua. Từ Tây Đô thời đó lại có thể xuống Ly Cung theo đường sông.

Thế hiểm của Tây Đô còn được bổ sung bởi con đường bộ quan trọng. Từ Tây Đô, ngược lên phía bắc qua Eo Lê có thể nối tiếp với đường thượng đạo duy nhất trong nhiều thế kỷ thời trung đại ở mạn Thạch Thành, Nho Quan.

Đây chính là con đường mà năm 1402 con trai Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương đã sai sửa chữa phố xá và trạm chạy giấy gọi là đường thiên lý như Toàn thư đã nói.

Mà cũng tình cờ, thứ được coi là đắc địa ấy nhiều trăm năm sau hậu duệ Đại Việt đã mở con đường Hồ Chí Minh xuyên Việt nhằm giảm tải cho con đường số I vốn đã xộc xệch cũ nát!

Thời thuộc Minh, Tây Đô là một cứ điểm quan trọng để quân Minh dòm ngó lẫn bành trướng cả một vùng mênh mông Hoan Châu. Giải phóng Tây Đô, quân của Bình Định Vương Lê Lợi đã xoay chuyển cả một cục diện chiến lược. Thời Trịnh Mạc, Thành Hồ Tây Đô cũng là cứ điểm hiểm yếu của quân Lê Trịnh vv...

Ly cung được xây dựng chính xác vào thời gian nào, trong bao lâu chưa thấy chính sử biên chép cụ thể?

Nhưng dứt khoát phải trước thời điểm xây dựng Thành Hồ Tây Đô. Từng là một đại thần quan trọng trong nhiều năm của vương triều Trần, Hồ Quý Ly như một thứ trụ cột rường đống để cứu vãn xã tắc Đại Việt cuối Trần thoát khỏi tình trạng suy thoái mục ruỗng.

Chính sử cũng nói rõ dưới thời các vua Duệ Tông, Phế Đế, Thuận Tông, Thiếu Đế, những việc quan trọng hầu như đều một tay Hồ Quý Ly định đoạt.

Chính thượng hoàng Trần Nghệ Tông, năm 1394 đã từng nói với Hồ Quý Ly: " nhà ngươi là người họ thân, công việc trong nước đều giao cho cả. Nay thế nước suy yếu, ta đã già yếu, sau khi ta chết rồi, quan gia đáng giúp thì giúp, ngu tối thì người tự lấy lấy nước "

Để lấy lấy nước, việc đầu tiên có lẽ Hồ Quý Ly nghĩ ngay đến việc dựng nghiệp đế tại một vùng đất mới. Hồ Quý Ly cho xây dựng Cung Bảo Thanh tức Ly Cung sớm hơn Thành Hồ khoảng 1,2 năm?

(Thành Hồ được xây vào năm 1397 như Toàn thư chép rõ) Quyết định bạo liệt của vị đại thần nhà Trần này dường như đã huy động tuyệt đối tài trí vật lực Đại Việt khi ấy vào việc xây dựng Ly Cung (cũng như Thành Hồ ngay sau đó) Có lẽ những hiệp thợ khéo nhất Đại Việt đã được huy động.

Mà rất có thể, Hồ Quý Ly đã hạ quyết tâm định đô tại Ly Cung này? Bằng cớ là " làm cung Bảo Thanh ở tây nam núi Đại Lại, mời vua đến ở đấy ". (Toàn thư trg 223) Nhưng vốn là kẻ tài trí, Ly Cung xây xong (hoặc có thể sắp xong?) Hồ Quý Ly đã chợt nhận ra thể tuyệt địa của kinh đô mới?

Vị trí của Ly Cung nằm trong thế tay ngai của một hệ thống đồi, núi, cao nhất là núi Ca Để (350m). Trước mặt là sông Lèn (đoạn chảy qua vùng này trước đây có tên là sông Đại Lại), gặp sông Mã ở phía tây và chảy qua biển ở cửa Thần Phù.

Xa hơn, chừng hơn 10km ở mạn bắc là hệ thống núi đá vôi Tam Điệp, cửa ngõ của xứ Thanh thời bấy giờ. Từ cửa bắc muốn vào nam qua chặng này bằng đường bộ không còn cách gì khác là len lỏi qua những đèo, những thung...

Từ Ly Cung, muốn ngược lên phía tây chỉ có thể đi bằng đường thủy theo sông Lèn hoặc sông Đào.

Với một vị trí địa lý như vậy, cho dù có ý đồ phòng thủ chủ động đến mấy, Hồ Quý Ly vẫn phải tính đến tình huống xấu nhất: đó là con đường rút lui khi cần.

Và như vậy có thể đồng thời là sau Ly Cung một chút, Thành Hồ (cách Ly Cung chỉ hơn 10km) kinh đô của Đại Ngu đã được gấp rút xây dựng chỉ trong ba tháng như chính sử đã ghi nhận. Một công trình độc đáo để lại bao ngẩn ngơ cho hậu thế!

Tôi bệt xuống đám cỏ may hung đỏ trên nền Ly Cung. Bên cạnh lăn lóc những khúc cột đá vỡ nham nhở và lác đác những thớt đá kê tảng. Chưa cần phải con mắt kiến trúc đo đạc, chỉ ước lượng cùng phỏng đoán, những cột lim kê trên nền cột tảng kia mới hoàng tráng làm sao.

Phải gần Tày ôm chứ chẳng ít. Cột ấy mới có sức đỡ những xà đá, gỗ vậm vạp. hồi sáng nhớ có hầu chuyện mấy cụ cao niên của xã Hà Đông này, các cụ còn cho biết cái năm xa chưa hợp tác hóa ấy người ta đã phát hiện ra một bè gỗ lim hàng mấy trăm cây kẹt cứng tại khúc sông Đại Lại bị lấp vùi.

Bè lim ấy dùng để xây Ly Cung chưa hết hay được điều gấp về xây Thành Hồ? Chao ôi những tòa ngang dẫy dọc của Cung Bảo Thanh của Ly Cung tan hoang từ thời nào và ai phá?

Cũng cảm thông với nhà nước mình kẹt vốn nhưng đã hào phóng công nhận Ly Cung là Di tích lịch sử quốc gia. Bởi kẹt vốn nên đành để Ly Cung dằng dặc phế tích cây dại trùm lấp trên cái nền Ly Cung hơn 4 ha này.

Bởi kẹt vốn nên chính giữa nền Ly Cung đành khiêm tốn làm tạm cái nhà bia để che chắn bảo quản tấm bia đá ghi chép về cảnh đẹp của Ly Cung.

Tôi lại bệt xuống nền nhà bia không phải để tường thêm về những hàng chữ đã mờ nhòe. Mà chỉ để cảm thêm cái thời ông vua Lê Tương Dực (gọi vua Lê Thánh Tông bằng ông nội) Ly Cung chắc chắn chưa bị bằng địa?

Ly Cung thuở ấy chắc chưa tang thương hồn thu thảo bóng tịch dương? Bằng có là Ly Cung mới là cũ chứ chưa nát thì vua Lê Tương Dực mới chép như thế chứ ông vua này chẳng thể sáng tác bịa tạc.

Trên bia còn rờ rỡ hàng chữ sắc nét ghi lại thời điểm vua Lê Tương Dực đề bia Hồng thuận tam niên nhị nguyệt nhị thập ngũ nhật (ngày 25 tháng 2 năm Hồng Thuận thứ 3, tức năm 1510).

Sử sách đã chép về ông vua khốn khổ khốn nạn này từng bạo gan xây cửu trùng đài với cả cái chết không toàn thây. Vị vua cũng 7 năm làm vua bằng đúng số năm Hồ Quý Ly làm vua nước Đại Ngu!

Thế mà bao lạ thay với khác thay. Nhưng có lẽ lịch sử cũng nên công bằng, nếu không có tấm bia về Ly Cung này thì có lẽ hậu thế chắc nhiều khiếm khuyết mỗi khi hình dung huân nghiệp của Hồ Quý Ly?

Hậu thế hoang mang là phải bởi công trình tòa thành đá xanh kỳ vĩ ấy kia, các kiến trúc sư đã đang và sẽ mệt óc tìm hiểu không biết cái phương thức thi công bằng kiểu gì? Tôi đồ rằng UNESCO vinh danh Thành Hồ là Di sản văn hóa nhân loại cũng là cái cách vinh danh vinh thăng và chiêu tuyết cho nhà cách mạng Hồ Quý Ly vậy?

Hồ Quý Ly - vị vua ngang thẳng

Tác giả bên hiện vật phế tích.

Sau này nhiều nhà chép sử (hình như có sự trợ giúp của đám phong thủy nửa mùa?) đã phán rằng Tây Đô Thành Hồ chỉ là nơi hợp với loạn, không hợp với trị, là nơi cuối nước đầu non hợp với thoái mà không hợp với tiến?

Tôi đồ rằng đây cũng là cái thứ rơi rớt dai dẳng của quan điểm ngụy Hồ ? Dằng dặc suốt chiều dài lịch sử Đại Việt, Hồ Quý Ly sinh thời lẫn khi khuất núi, đã có không ít kẻ thù.

Giặc Minh với họa diệt chủng về văn hóa thì đã đành. Các triều đại sau này cứ nhăm nhăm cho Triều Hồ cùng Hồ Quý Ly là ngụy?! Cuốn Toàn Thư (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư) còn có hẳn những chương chép riêng về triều Ngụy Hồ này! Yêu nên tốt ghét nên xấu.

Những giá trị đích thực của lịch sử thì cần công tâm khách quan sòng phẳng. Thay cái cũ đã mục ruỗng lỗi thời bằng cái mới tiến bộ hơn, chưa cần biết chi cả, cứ xa xả dè bỉu chê mắng cho là ngụy cái đã!

Thấy Hồ Quý Ly chê Luận Ngữ, sản phẩm tuyên giáo của Thiên triều thì lập tức run lên cầm cập mắng ngay rằng thế là hỗn! Có thể nói mà không sợ sái rằng, kim lẫn cổ, ngoài Hồ Quý Ly mới đủ độ hào sảng để thẳng thắn và huỵch toẹt rằng sách Luận Ngữ có một số chỗ đáng ngờ khó tin.

Nói Hàn Dũ là nhà Nho ăn trộm (đạo văn). Nhận xét Chu Đôn Di, Trình Hiệu, Chu Hy, Dương Thi, Lý Diên Niên... những học giả Trung Hoa sừng sững ấy là n hững kẻ tuy học rộng nhưng tài kém không chú ý đến thực tế, chuyên đánh cắp văn chương của người xưa ...Hồ Quý Ly chủ trương giải nghĩa Thư kinh , Thi nghĩa bằng chữ Nôm.

Viết tựa sách Thi nghĩa cũng bằng chữ Nôm (quốc ngữ) theo ý riêng độc đáo của mình không theo quan điểm của Chu Hy mà các thức giả lẫn học giả đương thời lấy làm mẫu mực! Sự ngang thẳng ấy được vua Tự Đức sau này phê là Vị phi toàn phi (chưa chắc đa là sai).

Rồi cụ Huỳnh Thúc Kháng, nhà đại khoa này đã tìm thấy ở Hồ Quý Ly một sự đồng tình không khoan nhượng: Phải nhận thấy cái án Tống Nho mà Hồ Quý Ly là cái thiết án (tức cái án ăn cắp) rất xác đáng! Cái gọi là thiết án ấy là lối học giáo điều nô lệ tầm chương trích cú nhai văn nuốt chữ mà đầu óc tê liệt không suy nghĩ chẳng sáng tạo ra điều gì mới mẻ !

Bảy năm của triều Hồ chỉ là cái chớp mi khẽ của lịch sử ấy thế mà hậu thế bây giờ vẫn nhọc công giải mã bao bí ẩn của các công trình xây cất cùng những cải cách đổi mới mà Hồ Quý Ly là tác giả.

Ba tháng xây xong Thành Hồ. Bao thế hệ cùng nhiều nhà nghiên cứu nội lẫn ngoại nhưng vẫn chưa có ai tìm ra được tài liệu gì mới để minh chứng không phải thời gian ngắn ngủi ba tháng ấy mà phải lâu hơn!

Chớm Thanh minh năm Thìn

Ghi chép của
Xuân Ba


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét